Chùa Tháp là một ngôi chùa cổ nổi tiếng tại Ninh Bình. Chùa tọa lạc tại thôn Yên Liêu Hạ (còn gọi là làng Lều), xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Tên chữ của chùa là “Vĩnh Báo” (nghĩa là vĩnh viễn báo đáp), tên này đã có từ lâu đời, được ghi chép trong thần phả do Trung Đại phu Dương An biên soạn năm Đại Khánh thứ ba (1316), thời Trần (bản sao lại vào thời Nguyễn. Nhân dân quen gọi là chùa Tháp, vì ở đây có ngôi tháp gạch cao 8m, là ngôi tháp cổ, đẹp và cao hiếm thấy ở Ninh Bình. Với những giá trị nổi bật, chùa Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc-nghệ thuật cấp quốc gia năm 1994.
Cảnh quan chùa nhìn từ hướng Bắc
Chùa Tháp là một quần thể tôn giáo tín ngưỡng, bao gồm: chùa thờ Phật; đền thờ Đinh Điền - vị quan tứ trụ triều đình của triều Đinh cùng với phu nhân của ngài là Thượng Trân Trưởng Công chúa và Kiều Mộc Thiền sư (nhân dân địa phương thường gọi ngôi đền này là đền thờ Tam Thánh); miếu thờ thủy thần.
Lịch sử hình thành của chùa Tháp gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật lịch sử Đinh Điền trong những năm cuối đời của ông. Đinh Điền (924 - 979) - một danh tướng của Đinh Bộ Lĩnh, quê ở phủ Trường Yên, vốn là bạn chí thiết của Đinh Bộ Lĩnh. Thời trẻ, cùng các bạn đồng lứa là Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ tham gia các trò chơi đánh trận giả của trẻ chăn trâu, suy tôn Đinh Bộ Lĩnh làm “chủ tướng”. Lớn lên, ông theo Đinh Bộ Lĩnh chiến đấu, dẹp loạn 12 sứ quân, lập được nhiều chiến công lớn. Khi đất nước thống nhất, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, ông được phong chức Ngoại giáp, trông coi việc binh ở các đạo[1].
Tượng Thượng Trân Trưởng Công chúa
Tượng Ngoại giáp Đinh Điền
Theo tư liệu “Đinh Tư Đồ sự tích” còn lưu giữ tại di tích, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi hoàng đế, Hoàng Thái hậu Dương Vân Nga giao quyền bính triều đình cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, khiến cho Đinh Điền và Nguyễn Bặc bất bình. Đinh Điền cùng phu nhân là Thượng Trân trưởng công chúa về vùng đất sa bồi ven biển (nay là thôn Yên Liêu Hạ) cắm đất dựng chùa để tu hành, thực chất là xây dựng căn cứ, chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo mưu tính đại sự lật đổ Lê Hoàn, mang quyền bính về lại cho nhà Đinh. Các địa danh gắn với sự việc này vẫn được lưu truyền trong dân gian: làng Lều là nơi dựng lều trú quân, làng Gạo là nơi tích trữ gạo thóc nuôi quân, làng Luận (tức làng Lợn đọc chệch) là nơi chăn nuôi gia súc lợn gà, cánh đồng Văn Giáo là nơi cất giấu vũ khí… Ông còn mở rộng căn cứ sang các vùng khác, nay thuộc các làng Bồ Vi, Yên Phó, Văn Giáp, Yên Lữ (xã Khánh An, huyện Yên Khánh, là quê ngoại của ông), Phú Mỹ (xã Khánh Vân)[2]… các làng này hiện đều có đền thờ Đinh Điền. Sau đó, ông cùng Nguyễn Bặc chia quân thủy bộ, tiến về kinh đô Hoa Lư tiến đánh Lê Hoàn. Do chênh lệch lực lượng, quân của hai ông thua to, Đinh Điền tử trận. Những người thân tín thu lượm hài cốt ông, mang về chùa Trúc Lâm chôn cất. Kiều Mộc Thiền sư làm lễ chiêu hồn ông, nhân dân trong vùng lập miếu thờ, hương khói cúng lễ theo tuần tiết. Phu nhân của ông là Thượng Trân Trưởng Công chúa được Kiều Mộc Thiền sư đưa đến chùa Trúc Lâm lánh nạn, vì quá đau buồn, bà cũng mất tại đây. Đến triều Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 5, Giáp Dần (1014), ông được truy phong là “Lịch đại tiết nghĩa chủ công thần” và chức “Nhập nội Kiểm giáo Đại tư đồ bình chương sự, Tổng quốc chính Đại vương”. Vua Lý Thái Tổ còn chỉ dụ cho Đường Công, quê ở làng Yên Liêu Hạ, vốn là gia thần rất thân thiết của Đinh Điền, đến chùa Trúc Lâm làm lễ thiêu xương cốt của ông bà. Sau đó hai vị thiền sư vốn là học trò của Kiều Mộc Thiền sư là Huệ Thanh và Huệ Tĩnh về xây tháp Vĩnh Báo, đem xá lị của ông bà về an táng tại đây. Ngọn tháp ấy nay vẫn còn, tuy đã trùng tu nhiều lần nhưng vẫn giữ được vẻ tôn nghiêm.
Tượng Kiều Mộc Thiền sư
Để tưởng nhớ Đinh Tư Đồ, bậc trung thần tiết nghĩa, ngày 27 tháng Tư âm lịch hàng năm, nhân dân trong vùng tổ chức lễ kỵ của ngài tại chùa Tháp. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm diễn ra tại di tích. Trước đây, nhân dân 9 làng thờ Đinh Điền đều rước kiệu về tế lễ tại chùa. Lễ tế có tế nam quan và nữ quan. Trong dịp này, các làng thi làm bánh giầy dâng thánh. Ngoài ra, trong dịp này còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian như cờ người, tổ tôm, đấu vật…
Trong khu di tích còn có miếu thờ Thủy thần. Theo sự tích, vị Thủy thần này vốn ngụ dưới giếng cổ ở Yên Liêu. Khi Quý Minh đại vương đến giếng đọc chiếu của vua Hùng vời về triều đánh giặc, thần đã xuất hiện dưới lốt là rắn hổ mang lớn, bơi về Phong Châu, yết kiến vua Hùng, lột xác thành vị tướng oai phong lẫm liệt, giúp Vua đánh giặc, được vua Hùng phong Hổ Mang đại tướng quân. Sau khi thắng trận, Hổ mang đại tướng quân trở về cửa biển Thần Phù, hóa lại thành rắn và mất vào ngày 12 tháng Bẩy (âm lịch). Thực chất, nơi đây là vốn là vùng đất trũng, xung quanh là đầm ruộng, nhiều rắn rết, việc xây dựng huyền thoại Thủy thần và lập miếu thờ của nhân dân trong vùng đã thể hiện tín ngưỡng dân gian thờ nhiên thần của người Việt, với mong muốn được sự che chở và phù hộ.
Các công trình chính của di tích đều quay hướng Nam, tọa lạc trên một khu đất cao có diện tích hơn hai mẫu Bắc Bộ, tách biệt với khu dân cư, xung quanh là ruộng trũng, gần ngã ba sông Trà Tu và sông nhỏ nối liền với sông Vạc. Di tích đã được tu bổ tổng thể trong những năm gần đây, trang khang thoáng đãng. Trong khuôn viên di tích bao gồm: chùa thờ Phật, đền thờ Đinh Điền, miếu thờ Thủy thần, tháp và một số công trình phụ trợ khác. Mỗi công trình có một kiểu kiến trúc khác nhau, nhưng vẫn hợp thành một quần thể hài hòa, trang trọng và uy nghiêm.
Ngọn tháp gạch cổ - Nguồn gốc tên gọi của di tích - Chùa Tháp
Chính giữa quần thể di tích là ngôi chùa, gồm hai tòa Tiền đường và Thượng điện. Tiền đường gồm có 2 mái, tường hồi bít đốc, 5 gian. Bộ vì kết cấu kiểu 4 hàng chân cột, vì nóc làm kiểu giá chiêng - kẻ ngồi, vì nách dùng kẻ. Các cột có đường kính lớn đặt trên chân tảng đá xanh thấp. Các cấu kiện chạm bào soi gờ chỉ. Hai gian bên của Tiền đường đặt hai pho tượng Hộ pháp bằng đất, sơn thếp cổ kính, đường nét tinh tế, uy nghiêm. Gian giữa của Tiền đường thông với sân gạch phía sau. Thượng điện nằm phía sau Tiền đường, cách một khoảng sân gạch nhỏ. Thượng điện chạy dọc, nằm vuông góc với Tiền đường, dài 9m, kiểu “tiền đao hậu đốc”, có 3 gian. Kết cấu vì nóc hầu hết sử dụng kiểu vì kèo - cọc báng đơn giản, duy chỉ bộ vì đầu tiên làm kiểu ván mê (ở vì nóc) và chồng rường (ở vì nách). Chạm khắc trang trí tập trung ở bộ vì này, với các đề tài tứ linh và lá lật, mang phong cách thời Nguyễn. Trung tâm Thượng điện bài trí tượng Phật và chư vị bồ tát, bên trái phía trong cùng đặt hai pho tượng thờ Huệ Thanh và Huệ Tĩnh - học trò của Kiều Mộc Thiền sư, những người có công mang xá lị của Đinh Điền và phu nhân của ông về an táng tại tháp chùa.
Nằm bên trái chùa (phía Đông) là đền thờ Đinh Điền. Đền có kiến trúc theo kiểu “chữ nhị”, gồm 2 tòa Tiền bái và Hậu cung. Tiền bái có 2 mái, hồi xây bít đốc, hai mặt trước và sau không xây tường mà để trống. Tiền bái gồm 3 gian, 2 dĩ, kết cấu bộ vì kiểu 4 hàng chân cột, vì nóc làm chồng rường, vì nách sử dụng ván mê. Các con rường vì nóc đều được chạm khắc hoa văn, trong đó đáng quan tâm nhất là các con rường trên cùng của 2 vì nóc bên phải được tạo tác khá đẹp với kỹ thuật chạm nổi các đường gờ chỉ lớn, đao lá, vân xoắn, hoa lá uốn lượn mềm mại, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII - XVIII. Hậu cung có mặt nền nằm song song và cách Tiền bái một khoảng sân nhỏ. Hậu cung có 2 mái, trước kia mái trước làm theo kiểu cổ đẳng, hiện nay đã làm liền thành một mái. Hậu cung có 3 gian, xây tường hồi bít đốc, kết cấu bộ vì kiểu 4 hàng chân cột. Vì nóc làm kiểu giá chiêng - kẻ ngồi, vì nách chồng rường. Các cấu kiện vì nóc chủ yếu được bào soi gờ chỉ. Các rường vì nách chạm nổi khối vân cuộn và lá, đường nét chạm khắc khá mềm mại, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Dòng chữ Hán trên thượng lương Hậu cung cho biết của đền được trùng tu vào năm Thành Thái thứ 15 (1903). Tại áp đốc Hậu cung, tương ứng với ba gian có ba ban thờ, gian giữa đặt tượng Đinh Điền, gian bên trái đặt tượng Thượng Trân trưởng công chúa, gian bên phải đặt tượng Kiều Mộc Thiền sư. Đặc biệt là pho tượng Đinh Điền bằng đồng, sơn son thếp vàng, được gắn vào một bệ đá, với chiếc cột được chôn sâu dưới lòng đất. Áo tượng trang trí điểm xuyết hoa văn, đặc biệt phần bụng khắc nổi hình một con rồng lớn, thân có vẩy tròn, uốn khúc, mặt nhìn nghiêng, đầu có sừng lớn, miệng há nhả ngọc. Bức tượng có giá trị nghệ thuật cao, mang phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ XVII.
Tượng Phật đá - phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII
Bên phải chùa (phía Tây) là miếu thờ Thủy thần. Miếu được xây dựng kiểu thờ dọc, 3 mái kiểu “tiền đao hậu đốc”, với mái hiên phía trước có 2 góc đao uốn cong mềm mại, đầu đốc phía trước trang trí hổ phù. Miếu có 3 gian, 1 chái, kết cấu bộ khung gỗ 4 hàng chân cột. Vì nóc ngoài cùng dùng ván mê, vì nách chồng rường. Các vì nóc còn lại làm kiểu giá chiêng, vì nách dùng kẻ. Ở hàng cột thứ 2 lắp cửa bức bàn, tạo thành cung cấm ở phía trong. Trang trí chạm khắc tập trung ở bộ vì ngoài cùng, trong đó vì nóc chạm nổi hình hổ phù lớn, vì nách chạm vân cuộn và lá. Các đường nét trang trí được chạm nổi khá lớn, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX, tương đương với niên đại Thành Thái thứ 15 (năm 1903) ghi trên thượng lương gian thứ nhất của ngôi miếu này.
Sau đền thờ Đinh Điền là ngọn tháp gạch cổ. Đây là công trình kiến trúc có giá trị về lịch sử và nghệ thuật. Theo thần phả, tháp được xây dựng từ thời nhà Lý. Tháp hiện cao 8m, chân vuông, kích thước 2m x 2m. Trước đây tháp có 7 tầng, vào cuối thời Lê, đầu Nguyễn bị gió bão làm đổ 2 tầng trên cùng. Ngôi tháp hiện còn 5 tầng không đều nhau, thu nhỏ dần về phía trên, đỉnh tháp có gắn bầu rượu. Gạch xây ngôi tháp này được nung chín già, như sành. Lác đác có hòn gạch khắc chữ “phương” (bằng chữ Hán) và hình hoa khế. Phần thân tháp trát vữa, 4 mặt tháp ở tầng 2 được trang trí hình tứ linh, các đôi câu đối chữ Hán hiện bị mất nhiều nét không đọc được. Tại tầng ba, các ô hộc bốn mặt được trang trí hình tứ quý. Đây là một ngôi tháp cổ hiếm hoi còn lại trên vùng đất Ninh Bình, là nguồn gốc tên gọi của di tích: chùa Tháp.
Nguồn tư liệu Hán Nôm hiện còn lưu giữ tại chùa cũng rất phong phú, có giá trị về lịch sử và văn hóa. Tại di tích, còn lưu giữ được 12 đạo sắc phong của các triều đại Hậu Lê và Nguyễn phong cho các vị được thờ cúng tại di tích; các bản thần tích về Đinh Điền và Thủy thần. Ngoài ra còn hệ thống tượng thờ, đại tự, câu đối chữ Hán có niên đại thời Nguyễn. Đây là những tư liệu quý góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và con người vùng đất này, đặc biệt về nhân vật lịch sử Đinh Điền.
Bát hương miếu thờ Thủy thần- phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII
Khu di tích chùa Tháp mang giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc. Ở đây có sự hòa quyện giữa tôn giáo (Phật giáo) và tín ngưỡng dân gian (thờ Thủy thần) của người Việt. Vừa là nơi tu tập, thực hành tôn giáo của các tu sĩ, tín đồ Phật giáo, vừa là nơi thờ cúng, tưởng niệm Đinh Điền - một nhân vật lịch sử có công lao to lớn trong việc thống nhất đất nước, góp phần lập nên nước Đại Cồ Việt ở thế kỷ X, nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử nước ta. Sự xuất hiện của miếu thờ Thủy thần trong quần thể di tích đã phần nào minh chứng về sự khởi thủy của vùng đất này. Di tích còn có các công trình kiến trúc cổ kính, lưu giữ được nhiều hiện vật, tư liệu quý có giá trị lịch sử và văn hóa cao, thể hiện bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa của nhân dân Ninh Bình nói riêng và của dân tộc ta nói chung.
(1). Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (cb). Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. NXB Giáo dục. H,2005. Tr 129.
(2). Nguyễn Văn Trò, Di tích lịch sử văn hóa về hai triều Đinh - Tiền Lê ở Ninh Bình. NXB Văn hóa dân tộc. H, 2007. Tr 117.
Nguồn: Sách Di tích và Danh thắng Ninh Bình tập 1, NXB Văn hóa dân tộc.
Phòng Quản lý Di sản văn hóa